GIAI ĐOẠN 1986 - 2006
I. Bối cảnh và nội dung đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo
1.1. Về bối cảnh quốc tế
Từ những năm của thập kỷ 80 thế kỷ trước, thế giới chứng kiến những quá trình mới diễn ra đang làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị và xã hội nhân loại. Toàn cầu hoá kinh tế trở thành xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời đại; không ngoại trừ một quốc gia, dân tộc nào, nếu muốn phát triển bắt buộc phải mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Cùng với toàn cầu hoá kinh tế, cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới lần thứ 3 diễn ra với nhịp độ ngày càng mạnh mẽ, mà cốt lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoa học công nghệ, phát triển các ngành công nghệ cao, như công nghệ truyền thông và tin học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học…
Tình hình này trước hết tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới. Chẳng những các lực lượng sản xuất và cơ cấu kinh tế thế giới có nhiều thay đổi theo hướng dựa vào tri thức và khoa học công nghệ, làm xuất hiện các ngành sản xuất mới có hàm lượng R&D và giá trị gia tăng cao, ngành dịch vụ ngày càng có vai trò quan trọng và tỷ trọng lớn dần trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
Mặt khác, nó làm thay đổi các quan hệ kinh tế và quản lý kinh tế thế giới theo hướng:
- Trong các nước tư bản phát triển phát triển, sau các cuộc khủng khoảng cơ cấu và dầu lửa, từ đầu những năm 80, đã tiến hành chính sách điều chỉnh kinh tế. Nội dung cơ bản là điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung vào các ngành có hàm lượng KHCN cao, thực hiện điều tiết nền kinh tế chủ yếu thông qua các công cụ vĩ mô, thực hiện tư nhân hoá khu vực kinh tế nhà nước, tăng cường vai trò của kinh tế tư nhân.
- Các nước đang phát triển như Đông Á và Đông Nam Á cũng thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới. Các cải cách ở đây bao gồm cải cách cơ cấu và xác định đúng chiến lược kinh tế để nâng cao sức cạnh tranh và phát triển, mở cửa hội nhập và liên kết kinh tế, khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài - coi đây là động lực phát triển kinh tế.
- Các nước xã hội chủ nghĩa cũ trước các khó khăn chồng chất đã tiến hành cải cách kinh tế nhằm khắc phục cơ chế kế hoạch hoá hành chính chỉ huy, chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Cải cách kinh tế Trung Quốc từ năm 1978 đã đạt được những thành tựu to lớn và là tấm gương cho Việt Nam tham khảo.
Như vậy, có thể thấy làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp trên thế giới cùng với quá trình toàn cầu hoá, cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 đã tạo áp lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới về kinh tế ở Việt Nam.
1.2. Về bối cảnh trong nước
- Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp và mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu Xô viết đã được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát triển kinh tế, nhất là tập trung cho công nghiệp hoá, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nền kinh tế nói chung và sản xuất công nghiệp vẫn tăng chậm, hơn nữa, có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng khoảng. Trong khi nguồn viện trợ của bên ngoài, các nguồn vốn và hàng hoá vật tư, nguyên liệu và hàng hoá tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, lại thêm bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ ngăn cản Việt Nam bình thường hoá quan hệ với thế giới.
- Trước những khó khăn, nhiều địa phương đã tìm lối thoát và đổi mới kinh tế từ cơ sở. Từ việc tổng kết thực tiễn này, năm 1979, tại Hội nghị trung ương 6 (khoá IV), Đảng ta đã tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong cơ chế quản lý nền kinh tế, nhằm “cởi trói” và để cho sản xuất “bung ra”. Tiếp theo, những cải tiến quản lý thử nghiệm được bắt đầu từ năm 1981 với khoán trong nông nghiệp, điều chỉnh kế hoạch và mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp công nghiệp quốc doanh. Có thể coi những cải tiến quản lý trong các năm 1979-1985 là các tìm tòi thể nghiệm chuẩn bị cho cải cách toàn diện (Đổi mới) nền kinh tế. Song, các cải tiến cục bộ này vẫn chưa làm thay đổi căn bản thực trạng nền kinh tế, khủng khoảng kinh tế vẫn rất trầm trọng. Vì vậy đổi mới toàn diện nền kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách ở nước ta.
Chủ trương đổi mới kinh tế, trong đó có đổi mới phát triển công nghiệp:
Đặc trưng nổi bật trong thời kỳ này là đổi mới. Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng là mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện ở nước ta. Sau khi phân tích phê phán nghiêm túc sai lầm, thiếu sót trong thời gian qua, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế toàn diện cho đất nước trong thời kỳ mới. Tiếp theo, các Đại hội VII (tháng 6/1991), Đại hội VIII (tháng 6/1996) và Đại hội IX (tháng 12/2001) đã tiếp tục khẳng định và bổ sung, hoàn thiện các chủ trương chính sách đổi mới kinh tế, có đổi mới phát triển công nghiệp và thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Có những nội dung chủ yếu sau:
- Đổi mới về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và chính sách cơ cấu: Trong những năm qua, do nhận thức phiến diện về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến khuynh hướng ham phát triển công nghiệp nặng, ham quy mô lớn và xây dựng mới, đã gây ra mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế. Để khắc phục tình trạng đó, Đại hội VI đã đề ra chủ trương bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư các ngành kinh tế, mà thực chất là cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế ở nước ta trong từng giai đoạn cụ thể. Trong chặng đường đầu tiên, cần tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, tạo tiền đề cho đẩy mạnh công nghiệp hoá ở giai đoạn tiếp theo; đưa nông nghiệp lên vị trí hàng đầu, nhấn mạnh vai trò to lớn của công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp; phát triển công nghiệp nặng một cách có chọn lọc, hợp với sức mình, nhằm phục vụ đắc lực cho ba chương trình kinh tế, không bố trí xây dựng công nghiệp vượt quá điều kiện cũng như khả năng cho phép.
- Đổi mới trong cải tạo và xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thực hiện chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phê phán quan điểm nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa trước đây, Đại hội VI đã khẳng định sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều này là xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội còn thấp của Việt Nam. Nó cho phép có nhiều hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng, phù hợp về qui mô, trình độ và hình thức với từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông, nhằm khai thác các tiềm năng kinh tế của xã hội. Đảng coi đây là giải pháp chiến lược để giải phóng sức sản xuất và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Đổi mới cơ chế quản lý công nghiệp: Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay đã không tạo được động lực phát triển và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Do đó, Đại hội VI đã chủ trương đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế và chỉ ra thực chất của cơ chế mới đó là: “cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Trên cơ sở tổng kết đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ đại hội, Đảng ta tiếp tục làm rõ nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng “xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây thực chất là quá trình đổi mới cả hệ thống các công cụ, chính sách quản lý kinh tế, tạo lập đồng bộ các yếu tố quản lý và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước.
II. Những thành tựu bước đầu đổi mới trong công nghiệp Việt Nam
Thực hiện đường lối Đổi mới của Đại hội VI và các nghị quyết của các Hội nghị Trung ương tiếp theo, trong thời kỳ 1986-1990, tuy còn nhiều khó khăn, nhưng phát triển công nghiệp bước đầu đã đạt được các kết quả quan trọng.
Trước hết, chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên nhanh chóng đi vào cuộc sống, bước đầu khơi dậy các tiềm năng kinh tế. Theo số liệu chưa đầy đủ, đến cuối năm 1989, nhiều tư nhân đã mạnh dạn bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh hàng trăm nghìn lạng vàng; thực hiện chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm, có nơi vốn đầu tư của dân nhiều gấp 3 - 4 lần số vốn đầu tư của ngân sách.
Ở thành thị, bên cạnh các hình thức kinh tế hợp tác, cá thể, đã bắt đầu phát triển kinh tế tiểu chủ, tư bản tư nhân. Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng đã có hơn 200 xí nghiệp tư nhân, có một số cơ sở đã sử dụng hàng trăm lao động. Trong nền kinh tế đã xuất hiện các mô hình liên kết các thành phần kinh tế quốc doanh là chủ đạo như Công ty Xuất khẩu Thuỷ sản (Seaprodex), các tổ chức gia công may mặc, giầy da xuất khẩu, các liên hiệp công - nông nghiệp chè…
Về chính sách cơ cấu đầu tư, chúng ta đã kiên quyết đình và hoãn gần 40 công trình, cắt giảm gần 300 công trình nhỏ. Nhà nước đã dành cho 3 chương trình kinh tế trên 60% vốn đầu tư của ngân sách trung ương và 70 - 80% vốn đầu tư cho ngân sách địa phương. Ngoài ra, các địa phương còn tự huy động thêm vốn để đầu tư bổ sung bằng khoảng 30 - 50% vốn đầu tư của ngân sách.
Trong thời kỳ 5 năm 1986-1990, vốn đầu tư cho công nghiệp vẫn chiếm trên dưới 45% vốn đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất. Các ngành, các địa phương đã thu gọn các công trình xây dựng mới, chuyển hướng đầu tư theo chiều sâu các cơ sở cũ, đồng thời tập trung vốn cho các công trình quan trọng nhất và bảo đảm tiến độ thi công các công trrình trọng điểm. Về sản xuất, dự tính năm 1990 có thể đạt khoảng 150 tỷ đồng giá trị tổng sản lượng, tính theo giá trị cố định năm 1982, tăng khoảng 40 - 50% so với năm 1985.
2.1. Tình hình của các ngành công nghiệp
Sản xuất hàng tiêu dùng được tiến hành với tinh thần là một chương trình trọng điểm của sản xuất công nghiệp. Giá trị sản lượng công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng năm 1990 tăng khoảng 60% so với năm 1985. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng đã sản xuất khoảng 350 triệu mét vải, 150 triệu sản phẩm may mặc, 30 triệu sản phẩm dệt kim, 10 triệu đôi giày vải, 200 triệu sản phẩm sứ, 13 triệu sản phẩm sành, 50.000 tấn thuỷ tinh, 1 triệu phích nước, 20 triệu đôi chiếu cói, 1.000 tấn sản phẩm nhôm, 10.000 tấn sản phẩm kim loại, 25 - 30 vạn xe đạp, 100.000 tấn giấy…
Thực hiện chương trình lương thực thực phẩm, giá trị sản lượng công nghiệp thực phẩm đã từ 25 tỷ đồng năm 1985 tăng lên 35 tỷ đồng năm 1990. Giá trị xuất khẩu năm 1990 đạt khoảng 130 triệu Rúp/USD, bằng 150% năm 1985.
Công nghiệp nặng vẫn được tiếp tục phát triển để phục vụ cho ba chương trình kinh tế. Đến năm 1990, công suất lắp đặt điện 3.000 MW. Sản lượng điện đạt trên 8 tỷ kWh. Từ năm 1988, ngành công nghiệp dầu khí bắt đầu khai thác những tấn dầu đầu tiên; từ 1988-1990 sản lượng dầu thô đạt 4,5 triệu tấn, riêng năm 1990 đạt 2,6 triệu tấn.
Ngành Cơ khí và Điện tử được sắp xếp lại sản xuất, ưu tiên dành vật tư nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất trọng điểm. Đến năm 1990, đã sản xuất được khoảng 3.000 máy kéo nhỏ, 4.000 máy nông nghiệp, 30.000 động cơ điện và điêdel, 1.000 máy biến áp, 4.500 bơm thuỷ lợi, 1.500 máy cắt gọt kim loại, 1.000 máy xay xát, 150 toa xe, 3.000 tấn phụ tùng ô tô, máy kéo, 50.000 máy thu hình, 150.000 rađiô.
Đến năm 1990, ngành Luyện kim sản xuất khoảng 90.000 tấn thép cán và 600 tấn thiếc thỏi. Ngành Hoá chất sản xuất khoảng 600 nghìn tấn phân lân, 2 - 3 vạn tấn phân đạm urê, 360 nghìn tấn apatit, 10.000 tấn xút, 20 triệu lốp và săm xe đạp…
2.2. Đổi mới toàn diện trong chính sách, tổ chức và quản lý công nghiệp quốc doanh
2.2.1. Điều chỉnh chính sách cơ cấu, trong đó có cơ cấu ngành công nghiệp
Đại hội VI (năm 1986) quyết định bố trí lại cơ cấu kinh tế, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, nhằm tập trung xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Chủ trương trên được thể hiện trong điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư của Nhà nước. Trong giai đoạn 1986-1990, Nhà nước đã kiên quyết đình chỉ và hoãn gần 40 công trình lớn, cắt giảm gần 300 công trình nhỏ, tập trung vốn cho ba chương trình trên tới 60% vốn đầu tư ngân sách trung ương và 60 - 70% ngân sách địa phương. Kết quả thực hiện ba chương trình trên đã góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội và tạo ra những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá trong giai đoạn tiếp theo.
Trong điều chỉnh cơ cấu kinh tế, bên cạnh việc coi trọng công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ này đã đề ra chủ trương xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cần thiết, mà ta có điều kiện về vốn, công nghệ và thị trường như: năng lượng, nhiên liệu, vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến, công nghiệp đóng và sửa chữa tầu thuỷ, luyện kim, hoá chất.
Như vậy, điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đổi mới thực chất là cụ thể hoá nội dung cốt lõi của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế ở nước ta trong từng giai đoạn. Con đường công nghiệp hoá của nước ta là vừa có những bước tuần tự, lại vừa có bước nhảy vọt, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ của các nước đi trước, từng bước đi vào phát triển kinh tế tri thức.
2.2.2. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Một vấn đề lớn của thời kỳ này là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Tháng 8 năm 1987, Hội nghị Trung ương lần thứ 3 đã ra nghị quyết về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với nội dung chủ yếu là thực hiện chế độ tự chủ kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh và đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế. Sau đó, tháng 11 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 217/HĐBT quy định cụ thể chế độ tự chủ kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh.
Theo tinh thần các văn bản trên, các Bộ đã dần dần giao quyền tự chủ cho các xí nghiệp về quản lý sản xuất kinh doanh cũng như công tác tổ chức cán bộ. Các Bộ, trong đó có Bộ Công nghiệp đã bước đầu xác định lại chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, sắp xếp lại bộ máy gọn nhẹ, chủ yếu Bộ làm chức năng quản lý nhà nước. Các xí nghiệp cũng đã giảm bớt những tổ chức không cần thiết, cắt bỏ các khâu trung gian, sắp xếp lại lao động, làm cho dây chuyền sản xuất được đồng bộ ổn định, bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao
Trong thời kỳ này còn có một sự kiện nổi bật là do hậu quả nặng nề nhiều năm của cơ chế bao cấp, nên đầu năm 1989, khi thực sự chuyển sang kinh doanh trên thị trường, nhiều xí nghiệp công nghiệp quốc doanh lần đầu tiên phải đối mặt với những thử thách gay gắt: vốn liếng thiếu hụt, hàng hoá ứ đọng, lao động dôi dư, sản xuất đình đốn, không ít xí nghiệp phá sản… Nhưng “bản lĩnh sinh ra từ nỗi đau” nên nhiều xí nghiệp đã phấn đấu vượt qua cơn “khủng hoảng thị trường và tiêu thụ đầu tiên” để vực dậy vào cuối năm 1989.
Vì thế, đổi mới quản lý tiếp tục được tiến hành theo hướng:
- Cải tiến công tác kế hoạch hoá;
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật, quản lý kinh tế chủ yếu bằng pháp luật và điều tiết nền kinh tế chủ yếu thông qua các chính sách và công cụ vĩ mô;
- Chính phủ cũng ban hành nhiều nghị định xác định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ. Một số Bộ có chức năng chồng chéo được sáp nhập lại hoặc giảm bớt, nhờ vậy đã thu gọn số lượng các cơ quan trực thuộc Chính phủ từ 70 đầu mối xuống còn hơn 40 đầu mối;
Nhìn chung, từ năm 1986 đến nay, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta diễn ra từng bước theo hướng vừa làm vừa thử nghiệm, sửa đổi, bổ sung. Trong những năm 1980-1990 là giai đoạn giao thời giữa hai cơ chế cũ và mới. Từng bộ phận của cơ chế cũ được xoá bỏ, từng bước hình thành cơ chế mới. Điều đó đã tạo ra động lực mới cho sự tăng trưởng ngoạn mục của nền kinh tế cũng như sản xuất công nghiệp trong nửa đầu thập kỷ 90. Tuy nhiên, việc hoàn thiện các chính sách và công cụ quản lý kinh tế, nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước, chống tệ nạn quan liêu, tham nhũng, bao cấp vẫn đang là vấn đề nổi cộm hiện nay ở nước ta.
2.2.3. Đổi mới và phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp
Trước đổi mới, các xí nghiệp quốc doanh nắm giữ phần lớn tài sản cố định và vốn lưu động, với gần 3 triệu lao động, tạo ra là 35 – 40% GDP và đóng góp trên 50% ngân sách nhà nước. Trong nhiều ngành công nghiệp, xí nghiệp quốc doanh chiếm từ 70 - 100% sản lượng. Tuy nhiên, nhiều xí nghiệp quốc doanh gặp khó khăn, yếu kém, làm ăn thua lỗ hoặc không có lãi.
Đổi mới xí nghiệp quốc doanh (sau này gọi là doanh nghiệp nhà nước) là một trong những nội dung quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế được thực hiện từng bước với các biện pháp thích hợp.
- Từng bước mở rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước đi đôi với xoá bỏ dần chế độ bao cấp của Nhà nước về tài chính, cung ứng và bao cấp giá vật tư, định giá với hầu hết các sản phẩm do doanh nghiệp nhà nước sản xuất và tiêu thụ (trong các năm 1987-1990). Chế độ thu quốc doanh cũng bị bãi bỏ, thay bằng chính sách thuế (Nghị định 388/HĐBT tháng 11 năm 1991).
- Sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng giải thể các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước có liên quan với nhau về sản xuất và thị trường. Tổ chức lại các công ty và các liên hiệp công nghiệp đã được thành lập trước đây, để hình thành các tổng công ty mới theo mô hình tổng công ty 90 và 91. Trong đó, Nhà nước bổ nhiệm hội đồng quản trị để điều hành và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về kết quả hoạt động của tổng công ty.
- Chuyển sang các hình thức sở hữu khác, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước bắt đầu được thực hiện thí điểm từ năm 1992. Tuy nhiên, tới năm 1996 mới có 10 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Từ năm 1998, khi Nghị định 44/CP được ban hành đến nay, Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp thúc đẩy nhanh hơn tiến trình cổ phần hoá. Từ năm 2000, Nhà nước áp dụng các biện pháp chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang các hình thức sỡ hữu và kinh doanh khác như: giao, bán, khoán, cho thuê, kể cả sáp nhập và giải thể đối với các doanh nghiệp nhà nước qui mô nhỏ. Trong quá trình này, số lượng doanh nghiệp nhà nước nói chung (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước ngoài công nghiệp) đã có nhiều biến đổi từ 12.000 cơ sở những năm đầu thập kỷ 90 xuống còn 6.000 cơ sở vào cuối thập kỷ 90, gần đây là khoảng 4.500 - 5.000 cơ sở. Tuy nhiên, cổ phần hoá và cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước mới chỉ giảm được 6 - 8% tổng vốn của doanh nghiệp nhà nước đang chiếm giữ, nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn trong tình trạng thua lỗ; bao cấp của Nhà nước vẫn chưa bị cắt bỏ mà còn tái lập dưới nhiều hình thức; đặc biệt, độc quyền nhà nước được chuyển thành độc quyền doanh nghiệp nhà nước lại càng nguy hại hơn so với các độc quyền tự nhiên trong kinh tế thị trường, bởi khả năng liên kết để hình thành các nhóm lợi ích độc quyền có khả năng chi phối chính sách rất cao. Việc duy trì một số lượng các doanh nghiệp nhà nước mà chủ yếu trong công nghiệp - xây dựng còn quá lớn, cồng kềnh và kém hiệu quả đã là nguyên nhân làm giảm hiệu quả, sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, trong khi áp lực hội nhập và khoảng cách tụt hậu đang ngày càng gia tăng.
Vì thế, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục được nghiên cứu và thực hiện theo hướng đa dạng hoá sở hữu, hoàn thiện thể chế kinh tế và quản lý, làm cho doanh nghiệp nhà nước có quyền tự chủ thực sự, trở thành các thực thể kinh tế có tư cách pháp nhân độc lập trong thị trường, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Từ năm 2003, Chính phủ bắt đầu thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công ty 90 và 91, theo mô hình tập đoàn hay công ty mẹ - công ty con.
2.3. Phát triển kinh tế cá thể, tư nhân và hợp tác xã trong công nghiệp
Trước khi đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân cá thể vẫn còn tồn tại ở nước ta, tuy nhiên chiếm tỷ trọng nhiều hơn cả là trong thương nghiệp - dịch vụ và nông nghiệp, còn trong công nghiệp thì ít hơn, nhưng do chủ trương hạn chế và cải tạo, mà khu vực này gặp nhiều khó khăn và không có điều kiện phát triển.
Kinh tế hợp tác cũng là bộ phận thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Nó chủ yếu tồn tại dưới hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã được hình thành trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những người sản xuất nhỏ, cá thể trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Kinh tế hợp tác ngày càng bộc lộ nhiều khuyết tật, thực chất nó chỉ là biến tướng và “cánh tay nối dài” của khu vực quốc doanh. Nên khi kinh tế quốc doanh lâm vào khó khăn, khủng hoảng, thì mô hình kinh tế hợp tác xã cũng chao đảo, tan vỡ theo, nhất là trong giai đoạn cuối những năm thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Nhiều hợp tác xã hiện còn tồn tại nhưng chỉ là trên hình thức. Trong thời kỳ đổi mới, đa phần các cơ sở kinh tế hợp tác chuyển đổi theo các hướng sau:
- Giải thể các tổ hợp, tập đoàn sản xuất hoặc các hợp tác xã làm ăn yếu kém, thua lỗ kéo dài;
- Giao khoán hoặc nhượng, bán tư liệu sản xuất lại cho tập thể xã viên để họ trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình;
- Chuyển các hợp tác xã còn hoạt động kinh doanh thành các hình thức hợp tác xã cổ phần hoạt động theo Luật Hợp tác xã mới (ban hành năm 1997).
Trong khi đó, đặc biệt lưu ý thành phần kinh tế tư nhân, cá thể ngày càng được phát triển mạnh, nhất là kể từ khi có Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực từ năm 2000. Điều này khiến cho hàng ngàn doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời mỗi năm, đồng thời nó cũng gián tiếp thúc đẩy khu vực kinh tế hộ cá thể cùng phát triển. Nhờ thế, khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh từ tỷ trọng chiếm 23% năm 2000 đã tăng lên 26,1% vào 6 tháng đầu năm 2003. Ngoài đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất và đời sống dân sinh trong nước, khu vực này còn tham gia tích cực sản xuất hàng xuất khẩu ngày càng tăng với các sản phẩm chủ yếu: đồ gỗ mỹ nghệ, gốm sứ mỹ nghệ, chiếu cói, may mặc, giầy dép… Nhiều sản phẩm khu vực ngoài quốc doanh sản xuất chiếm tỷ trọng trên 50%, thậm chí trên 90% hoặc gần như 100%.
2.4. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong công nghiệp
Đây là khu vực mới ra đời ở nước ta chưa lâu, gắn với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế. Năm 1987, Nhà nước đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, theo đánh giá thì đây là bộ luật tiến bộ trong thời kỳ ấy, nếu so với các bộ luật tương ứng của Trung Quốc, Liên Xô (trước đây) và nhiều nước khác. Sau đó, Luật này được tiếp tục sửa đổi và bổ sung nhiều lần để tăng tính hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Luật quy định không quốc hữu hoá doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài được quyền chuyển về nước các khoản lợi nhuận, tiền cung cấp kỹ thuật, dịch vụ, cả tiền gốc lẫn lãi các khoản cho vay đầu tư và tài sản hợp pháp… Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài như: đơn giản hoá các thủ tục hành chính, xây dựng các khu công nghiệp (khu chế xuất) tập trung, có cơ sở hạ tầng thuận tiện với những điều kiện ưu đãi. Các hình thức và các lĩnh vực cho phép đầu tư nước ngoài từng bước được mở rộng… Những chủ trương, chính sách trên nhằm thu hút đầu tư của nước ngoài, kết hợp phát huy tốt các nguồn nội lực với các nguồn lực bên ngoài vào phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ mới.
Theo đó, các xí nghiệp liên doanh (chủ yếu là giữa doanh nghiệp nhà nước với các công ty tư bản nước ngoài) phát triển ở Việt Nam dưới nhiều dạng khác nhau như doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Riêng trong công nghiệp vào năm 2000 đã có 1.063 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 2.787 doanh nghiệp hỗn hợp.
Hiện khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm tỷ trọng đáng kể: 36,4%, ngang với khu vực doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp. Ngoài một số sản phẩm như điện, than, khai thác quặng, phân bón, chế tạo động cơ, máy công cụ, toa xe lửa là chưa có đầu tư hoặc đầu tư chưa đáng kể, còn hầu hết các ngành khác đều đã có mặt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp này đang chiếm giữ vị trí cao về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm và mức xuất khẩu. Phần lớn các ngành có công nghệ cao đều do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm giữ như: khai thác dầu khí, lắp ráp ô tô, xe máy, công nghiệp điện tử, thiết bị văn phòng, máy tính...
2.5. Đánh giá đổi mới, phát triển công nghiệp trong điều kiện hội nhập
Từ thực tiến phát triển công nghiệp trong 20 năm qua, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau đây cho việc xây dựng và phát triển công nghiệp trong thời gian tới.
Một là, xác định một mô hình công nghiệp hoá phù hợp, trên cơ sở đó mà xây dựng và thực hiện một cơ cấu công nghiệp “mềm” theo hướng ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp có lợi thế lợi nhuận cao. Xây dựng nền công nghiệp theo “cơ cấu 2 tầng”: Công nghiệp xã hội và công nghiệp gia đình; cái gì làm tại gia đình tốt thì làm tại gia đình. Đặc biệt chú ý phát triển công nông nghiệp nông thôn (kể cả ở miền núi và miền biển) gắn với phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển công nghiệp theo ba loại quy mô nhỏ, vừa, lớn, kết hợp kỹ thuật truyền thống với kỹ thuật hiện đại. Coi trọng phát triển tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp theo hướng tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo. Nghiên cứu để xác định và phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghệ sinh học, điện tử và tin học, vật liệu mới, cơ khí hoá và tự động hoá, năng lượng hạt nhân.
Hai là, thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong công nghiệp nhằm phát triển mạnh kinh tế hàng hoá. Công nhận tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá và sử dụng rộng rãi các thành phần kinh tế theo nguyên tắc thành phần nào sản xuất cái gì có lợi hơn thì phát huy thành phần đó. Chỉ duy trì và phát triển một số ít xí nghiệp quốc doanh ở các “đài chỉ huy” của nền kinh tế, cổ phần hoá phần lớn xí nghiệp quốc doanh và thực sự cởi trói để nó có thể hoạt động năng động và có hiệu quả. Phát triển rộng rãi các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, vì Nhà nước không phải đầu tư mà vẫn thu được tích luỹ, lao động có thêm việc làm, xã hội có thêm hàng hoá. Đối xử bình đẳng với các thành phần kinh tế cả về mặt chính trị, kinh tế, xã hội.
Ba là, thực sự mở cửa nhằm hội nhập quốc tế, gắn nền công nghiệp nước ta với nền công nghiệp thế giới, nhất là nền công nghiệp của các nước láng giềng. Vận dụng mọi hình thức có thể như hình thức đầu tư 100%, lập các “đặc khu kinh tế” nhằm thu hút mạnh vốn đầu tư và kỹ thuật của nước ngoài. Gắn xuất khẩu với nhập khẩu, tiến tới xây dựng và phát triển một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có giá trị cao, khối lượng lớn, chất lượng tốt. tạo điều kiện cho việc mở cửa như đổi mới tư duy an ninh và tư duy đối ngoại, khắc phục tình trạng lạc lõng của mình đối với thế giới, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp và chính sách về kinh tế đối ngoại, xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm kinh tế đối ngoại và kinh doanh đối ngoại…
Bốn là, thực sự đổi mới quản lý kinh tế, quản lý công nghiệp theo hướng xoá bỏ bao cấp, chuyển sang kinh doanh. Khẩn trương đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế cùng với đổi mới về kinh doanh. Nhà nước không can thiệp vào quản lý kinh doanh mà chỉ quản lý các đơn vị kinh tế bằng pháp luật. Dứt khoát chuyển các đơn vị kinh tế, nhất là các xí nghiệp quốc doanh sang cơ chế kinh doanh, gắn sản xuất với thị trường, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ sản xuất, tự do kinh doanh, tự trang trải tài chính, tự phân phối thu nhập và tự quản xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở làm tròn nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. Có kế hoạch đào tạo lại và đào tạo cán bộ cho ngành công nghiệp: cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ quản lý kinh doanh và cán bộ khoa học kỹ thuật; xây dựng cho được một đội ngũ công nhân lành nghề.
Năm là, sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp trong những năm qua không chỉ diễn ra giữa ba khu vực Nhà nước, tư nhân - cá thể và có vốn đầu tư nước ngoài , mà còn diễn ra giữa các ngành công nghiệp cá biệt. Đáng chú ý là sự chuyển dịch cơ cấu diễn ra khi các ngành truyền thống như chế biến thực phẩm và đồ uống, dệt may da giầy, vật liệu xây dựng, gốm sứ thuỷ tinh vẫn duy trì được vị thế với tỷ trọng ổn định lần lượt là: 22,5%, 12,1%, 9,7%; thì trái lại, một số ngành khác mới hình thành sản xuất ra các sản phẩm quan trọng phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu đã nâng được tỷ trọng, đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng chung của cả ngành công nghiệp những năm qua (dầu khí chiếm 9,4%, thép chiếm 3,1%, sản xuất và lắp ráp điện tử chiếm 4,7%, sản xuất và lắp giáp phương tiện vận tải chiếm 5,1%...).
x
x x
Nhìn lại 60 năm xây dựng và phát triển công nghiệp theo đường lối công nghiệp hoá của Đảng, chúng ta có thể tự hào về những thành tựu đã đạt được. Nền công nghiệp nước ta đã phát triển gần như từ không đến có, từ nhỏ đến lớn và ngày nay đã bước đầu hình thành một cơ cấu gồm công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, công nghiệp lớn và công nghiệp nhỏ, gồm nhiều thành phần kinh tế… Công nghiệp hoá đã góp phần làm biến đổi bộ mặt đất nước. Các nhà máy đã mọc lên ở khắp các địa phương, kể cả ở miền núi, nơi mà trước đây chưa hề biết công nghiệp là gì. Trên đồng ruộng đã thấy dọc ngang hàng vạn cây số đường dây điện cao thế, hàng ngàn trạm bơm thuỷ lợi, các gia đình đã dùng điện trong sản xuất và sinh hoạt phổ biến. Công nghiệp nông thôn, công nghiệp gia đình đã hình thành và bước đầu phát triển. Công nghiệp nặng đã chế tạo được máy động lực, máy công cụ, thiết bị lẻ và một số thiết bị toàn bộ cỡ nhỏ trang bị cho các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp nhẹ đã sản xuất được nhiều mặt hàng tiêu dùng phục vụ cho đời sống và xuất khẩu. Một đội ngũ lao động, công nhân và cán bộ khoa học - kỹ thuật công nghiệp trên 3 triệu người đã được đào tạo bồi dưỡng khá tốt…
Các ngành công nghiệp đã góp phần ổn định và nâng cao đời sống, phát huy tác dụng đối với các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là đối với nông nghiệp. Ngành Cơ khí đã có hàng chục mặt hàng phục vụ nông nghiệp. Hàng năm, ngành Năng lượng đã dành cho nông nghiệp hàng triệu triệu kWh điện và hàng triệu tấn than. Ngành Hoá chất đã đưa về đồng ruộng hàng triệu tấn phân hoá học. Các ngành công nghiệp nhẹ cũng đã cung cấp cho nông dân những mặt hàng thiết yếu về ăn, mặc, ở, tiêu dùng, đi lại, học tập, chữa bệnh… Ngoài ra, chúng ta cũng đã xây dựng nhiều xí nghiệp chế biến nông sản, góp phần mở rộng giá trị sử dụng và nâng cao giá trị của hàng hoá nông sản.
Khẳng định những thành tựu nói trên, chúng ta cũng đã đồng thời thấy rõ sự thật là, cho đến nay, nền công nghiệp của chúng ta còn quá nhỏ bé về số lượng và quá kém cỏi về chất lượng, chưa phát huy được vai trò chủ đạo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kỹ thuật công nghệ của ngành quá lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ và hư hỏng nhiều. Công nhân và cán bộ kỹ thuật trình độ và tay nghề còn thấp, người lao động chưa an tâm phấn khởi sản xuất, tiền lương chưa đảm bảo cuộc sống. Chừng mực nào đó đã bị chảy máu chất xám. Hàng hoá làm ra chưa nhiều, chưa phong phú, chất lượng chưa cao, giá cả lại đắt, chưa cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài.
Thực trạng công nghiệp nói trên là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng chủ yếu là do chủ quan:
- Chưa nghiên cứu xác định được một chiến lược và mô hình phát triển công nghiệp đúng đắn phù hợp với đặc điểm của đất nước và xu thế của thời đại; chưa dựa hẳn vào nông nghiệp và công nghiệp nhẹ mà còn máy móc theo đường lối ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
- Trong xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, còn nặng nề về xây dựng mới, nhẹ đầu tư chiều sâu các cơ sở sẵn có; còn nặng về quy mô lớn, chưa coi trọng quy mô nhỏ. Trong xây dựng mới thì chưa chú ý tính toán cân đối các mặt, chưa tranh thủ được công nghệ, kỹ thuật hiện đại.
- Trong xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất, còn nặng về quốc doanh và tập thể, còn phân biệt đối xử và chưa sử dụng tốt chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Về cải tạo thì thường chỉ thay đổi quan hệ sở hữu, mà không coi trọng giải quyết các vấn đề về quan hệ phân phối, quan hệ quản lý - tổ chức sản xuất. Cách làm thường gò ép, chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng, không nắm vững mục tiêu của cải tạo và phát triển.
- Trong quản lý kinh tế, chậm thay đổi cơ chế bao cấp bằng cơ chế kinh doanh. Quản lý nhà nước về kinh tế chưa thực hiện phù hợp với kinh tế thị trường. Nhiều chính sách, thể chế lỗi thời chậm được thay đổi, một số chế độ quản lý còn chắp vá, không ăn khớp, đặc biệt, xây dựng pháp luật kinh tế làm quá chậm. Bộ máy quản lý từ trung ương đến tỉnh, huyện phình ra quá to mà hiệu năng thấp. Chúng ta cũng chậm thực hiện chính sách mở cửa, chậm bãi bỏ các rào cản và bảo hộ đối với các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả và hàng hoá nội địa không có khả năng cạnh tranh, do đó, chậm hội nhập nền công nghiệp nước ta với nền công nghiệp thế giới, nhất là với các nước trong khu vực và láng giềng.
III. Quá trình đổi mới tư duy, nhận thức, cơ chế chính sách thương mại
3.1. Trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, ngoại thương hoàn toàn do Nhà nước độc quyền, mọi hoạt động xuất nhập khẩu đều do các công ty nhà nước thực hiện. Với chính sách đổi mới, hoạt động thương mại dần dần được mở rộng sang các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, tiến tới tự do hoá xuất nhập khẩu.
Ngày 24 tháng 3 năm 1988, Hội đồng Nhà nước Quyết định thành lập Bộ Kinh tế đối ngoại, trên cơ sở sáp nhập Bộ Ngoại thương và Ủy ban Kinh tế đối ngoại.
Năm 1988, Nhà nước bắt đầu nới lỏng những hạn chế trong việc thành lập các tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu. Nhiều địa phương, tổ chức xã hội, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tham gia hoạt động ngoại thương, số doanh nghiệp được phép xuất, nhập khẩu từ khoảng 30 đơn vị trước năm 1986 đã bắt đầu tăng lên.
Trước khi có chủ trương đổi mới, việc bán hàng của các tổ chức sản xuất, cá nhân chỉ được thực hiện với các tổ chức thương mại độc quyền, từ năm 1989, các nhà sản xuất có quyền bán cho bất kỳ doanh nghiệp nào được phép hoạt động.
Các chính sách và biện pháp khuyến khích xuất khẩu được thực hiện trong giai đoạn 1986-1989 đã có tác dụng tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, thu hẹp khoảng cách giữa kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu, đưa tỷ lệ 1 xuất khẩu, 3 nhập khẩu năm 1986, xuống còn 1 xuất khẩu, 1,3 nhập khẩu năm 1989. Cụ thể như sau:
Bước sang thời kỳ 1990-1997, thực hiện chính sách xoá bỏ chỉ tiêu pháp lệnh và tiếp tục xoá bỏ chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương, thoát dần ra khỏi cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, từng bước theo cơ chế thị trường.
Ngày 31 tháng 3 năm 1990, Bộ Thương nghiệp được thành lập trên cơ sở hợp nhất Bộ Kinh tế đối ngoại, Bộ Nội thương và Bộ Vật tư.
Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá VIII, từ ngày 27/7 đến 12/8/1991 đã quyết định đổi tên Bộ Thương nghiệp thành Bộ Thương mại và Du lịch.
Trong những năm 1989 – 1992, dưới tác động của Nghị định 64/HĐBT ngày 10 tháng 6 năm 1989 của Hội đồng Bộ trưởng, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp của các doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành và địa phương đã được mở rộng. Nghị định này cũng khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu bằng cách áp dụng các biện pháp miễn giảm các loại thuế, xoá bỏ việc giao chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh cho các doanh nghiệp, xoá bỏ cơ chế kết hối ngoại tệ theo tỷ giá kết toán nội bộ, thiết lập tỷ giá ngoại tệ theo quan hệ cung cầu và giá trị thực của đồng Việt Nam.
Thời kỳ này, kim ngạch xuất khẩu có bước tăng trưởng đáng kể, thu hẹp dần khoảng cách xuất - nhập, quan hệ kinh tế với nước ngoài được mở rộng, hình thành thị trường thống nhất trong cả nước gắn với thị trường thế giới; từ chỗ phải bù lỗ, ngân sách nhà nước đã có khoản thu đáng kể từ thuế xuất nhập khẩu.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng, đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế, đòi hỏi phải có những điều chỉnh thích hợp:
- Nhiều lĩnh vực xuất, nhập khẩu chưa có các chế độ quản lý của Nhà nước.
- Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa được tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp một cách rộng rãi.
- Còn sử dụng quá nhiều biện pháp hành chính, tất cả hàng xuất, nhập khẩu phải có giấy phép của Bộ Thương mại, còn quá nhiều khâu kiểm duyệt nặng nề, gây phiền hà, ách tắc cho doanh nghiệp.
Nghị định 114/HĐBT ngày 07/7/1992, Nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 về quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu, đã thay thế, loại bỏ những bất hợp lý trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, điều chỉnh các hoạt động xuất nhập khẩu theo cơ chế thị trường, cụ thể:
- Mở rộng quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong cả 2 lĩnh vực kinh doanh và sản xuất.
- Điều chỉnh mức vốn lưu động từ 200 ngàn USD xuống 100 ngàn USD cho các doanh nghiệp ở các vùng khó khăn, hoặc mặt hàng khuyến khích xuất khẩu để đủ điều kiện tham gia xuất khẩu.
- Mọi hàng hoá, trừ một số còn chịu sự quản lý của Nhà nước, được tự do xuất, nhập khẩu và chịu sự điều tiết bằng thuế, theo luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Ngoài ra, Bộ Thương mại còn ban hành một số quy chế tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu quá cảnh hàng hoá, gia công chế biến hàng xuất khẩu cho nước ngoài, uỷ thác và nhận uỷ thác xuất, nhập khẩu hàng hóa.
Nhờ Nghị định 114/HĐBT, số doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh xuất, nhập khẩu đến năm 1994 đã tăng lên đáng kể, đạt con số 1.200, trong đó ngoài quốc doanh chiếm 13%, đến tháng 9 năm 1998, con số đó tăng lên 2.250, trong đó ngoài quốc doanh chiếm 654 doanh nghiệp. Nhờ vậy, kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này có bước tăng trưởng rõ rệt
Ngày 10/5/1997, Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật Thương mại; ngày 23/5/1997, Chủ tịch nước ký Lệnh số 58L/CTN công bố ban hành, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1998. Tiếp đó, Chính phủ ra Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua, bán hàng hoá với nước ngoài. Đây là một bước tiến tiếp tục hoàn thiện cơ chế, tạo hành lang pháp lý ổn định cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Nghị định 57/1998/NĐ-CP đã quy định và cụ thể hoá các chính sách về hoạt động thương mại với nước ngoài đã nêu trong Luật Thương mại, trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực của cơ chế, chính sách về hoạt động thương mại trong thời kỳ đầu đổi mới, nhất là Nghị định 33/CP ngày 19/4/1994, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo quan điểm giảm hơn nữa sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, Nghị định 57/1998/NĐ-CP đã xoá bỏ hoàn toàn chế độ giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu, loại bỏ nhiều rào cản trước đó, tạo môi trường pháp lý thông thoáng, bình đẳng hơn, tạo ra sự chuyển biến về chất cho cơ chế xuất – nhập khẩu, tôn trọng quyền kinh doanh và quyền tự chủ của doanh nghiệp, giảm thiểu cơ chế xin – cho, hầu hết hàng hoá được làm thủ tục xuất, nhập khẩu trực tiếp tại hải quan, chỉ chịu sự điều tiết về thuế, biện pháp phi thuế chỉ còn áp dụng đối với một số lượng rất ít mặt hàng.
Nghị định 57/1998/NĐ-CP tập trung xử lý một số nội dung chủ yếu sau:
- Khuyến khích mạnh mẽ sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu.
- Mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Chỉ cần làm thủ tục hải quan khi xuất, nhập khẩu, thương nhân được chủ động xuất khẩu, nhập khẩu hầu hết các loại hàng hoá, trừ hàng hoá cấm xuất khẩu (gồm 6 nhóm hàng), cấm nhập khẩu (gồm 11 nhóm hàng); hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện (hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo hạn ngạch, hoặc hàng hoá xuất, nhập theo giấy phép của Bộ Thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành).
Hàng hóa xuất khẩu theo hạn ngạch chỉ có 2 mặt hàng là gạo và hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường có hạn ngạch (theo hạn ngạch của nước ngoài). Các hàng hoá khác nhập khẩu không bị áp dụng hạn ngạch.
Năm 1998, trước tình hình khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, để tránh việc nhập khẩu quá mức bình thường hàng hoá rẻ của các nước, bảo hộ sản xuất trong nước, hạn chế mức nhập siêu, nên năm 1999, Chính phủ chủ trương hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất đáp ứng đủ nhu cầu, đưa số nhóm mặt hàng quản lý bằng giấy phép từ 9 nhóm mặt hàng năm 1998 lên 18 nhóm mặt hàng, trong đó, giấy phép của Bộ chuyên ngành đối với 8 nhóm mặt hàng.
- Nhận gia công cho thương nhân nước ngoài.
- Đặt gia công hàng hoá cho nước ngoài.
- Tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu.
- Xuất khẩu, nhập khẩu uỷ thác.
Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ đã thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu trong giai đoạn 1998 – 2001. Nhờ khai thông vấn đề quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu, xoá bỏ giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu, tháo bỏ các rào cản, tăng cường các biện pháp khuyến khích, đặc biệt là các biện pháp tài chính, nên kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đã tăng gần 23,6% so với năm 1998, năm 2000 tăng 25,4% so với năm 1999, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhập khẩu đảm bảo cung ứng đủ hàng hoá cho sản xuất, tiêu dùng trong nước. Nhập siêu được kiềm chế hợp lý.
Tuy nhiên, Nghị định 57/1998/NĐ-CP vẫn chưa tạo được tính ổn định tương đối lâu dài. Các Danh mục hàng hoá cấm xuất, nhập; Danh mục hàng hoá xuất, nhập theo giấy phép; Danh mục hàng hoá xuất, nhập quản lý theo chuyên ngành thay đổi hàng năm, gây khó khăn cho việc hoạch định chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, quyền kinh doanh của doanh nghiệp còn bị hạn chế, hàng hoá xuất khẩu còn lệ thuộc vào mặt hàng trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; chưa đề cập đến nhiều biện pháp, chính sách mà các tổ chức quốc tế thừa nhận như hạn ngạch thuế quan, thuế chống phá giá, chống trợ cấp, thuế tuyệt đối, phí môi trường… trong khi đó, vẫn còn quy định cả những chính sách chưa phù hợp với thông lệ quốc tế (một số mặt hàng chỉ được các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu, tạo nên sự không công bằng giữa các doanh nghiệp), gây sự độc quyền, làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 02/8/2001 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 57/1998/NĐ-CP và Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 04/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 – 2005 là một bước tiến lớn trong tự do hoá thương mại, mở cửa thị trường. Lần đầu tiên tạo một cơ chế quản lý xuất, nhập khẩu rõ ràng, minh bạch, ổn định trong thời gian 5 năm, với 3 danh mục: Cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; Xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại và xuất khẩu, nhập khẩu theo các quy định quản lý chuyên ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạch định kế hoạch sản xuất, kinh doanh cho công tác quản lý nhà nước, công bố rõ ràng lộ trình bãi bỏ giấy phép của Bộ Thương mại.
Nghị định 44/2001/NĐ-CP và Nghị định 57/1998/NĐ-CP đã tạo quyền chủ động cho các chủ thể tham gia xuất, nhập khẩu, từ chỗ phải có giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu với những điều kiện rất chặt chẽ về vốn lưu động, về loại hình kinh doanh, sản xuất, về kinh tế quốc doanh hay ngoài quốc doanh… đến chỗ mọi thương nhân Việt Nam đều có quyền xuất, nhập khẩu không cần giấy phép, mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp FDI, của chi nhánh công ty nước ngoài, huy động các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Quyết định 46/2001/QĐ-TTg đã điều chỉnh lại danh mục hàng hoá cấm xuất, cấm nhập cho phù hợp hơn, loại bỏ ngay một số hàng nhập khẩu ra ngoài danh mục hàng nhập khẩu có giấy phép, xác định lộ trình loại bỏ giấy phép đối với các mặt hàng nhập khẩu thời kỳ 2001-2005. Xoá bỏ hạn ngạch và đầu mối xuất khẩu gạo, nhập khẩu phân bón, nhập khẩu rượu, xác định các nguyên tắc quản lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo quản lý chuyên ngành; áp dụng các biện pháp quản lý mới phù hợp với quy định của Tổ chức Thương mại thế giới như: hạn ngạch thuế quan, thuế chống phá giá, chống trợ cấp…
Tóm lại, qua 20 năm thực hiện đổi mới, từ những thay đổi cơ bản trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu đã góp phần thúc đẩy tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhà nước, tạo ra chuyển dịch thị trường theo đúng hướng đa phương, phục vụ tốt cho việc phát triển sản xuất, phục vụ thuận lợi cho người tiêu dùng, mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư.
Những thành tựu chủ yếu đã đạt được thể hiện như sau:
- Xoá bỏ được cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, xây dựng môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu vận hành theo cơ chế thị trường, góp phần khơi dậy được mọi tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động của các đơn vị kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế để phát triển xuất khẩu.
- Từ chỗ hàng năm, Nhà nước phải bù lỗ lớn cho hoạt động xuất, nhập khẩu thì đến nay, ngân sách nhà nước đã có nguồn thu đáng kể từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
- Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đã góp phần đáng kể vào việc giải quyết khủng hoảng kinh tế, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, đặc biệc khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, nguồn thiết bị, nguyên vật liệu quan trọng, hàng tiêu dùng thiết yếu chủ yếu nhập khẩu bằng vay nợ và viện trợ không còn.
- Từ chỗ chỉ được xuất khẩu, nhập khẩu những hàng hoá được Bộ Thương mại cho phép, đến nay, thương nhân được xuất khẩu, nhập khẩu tất cả các loại hàng hóa, trừ hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu và hàng xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện, chỉ phải làm thủ tục tại hải quan cửa khẩu.
- Từ chỗ chỉ được trực tiếp kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu theo Giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu của Bộ Thương mại, đến nay, thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo qui định của luật pháp đều được trực tiếp kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu.
- Hoạt động xuất, nhập khẩu đã thúc đẩy xuất khẩu tăng nhanh, trang trải nhu cầu nhập khẩu thiết bị, vật tư; nguyên nhiên liệu, hàng tiêu dùng cho phát triển kinh tế và từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Đến nay, số thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu trực tiếp hơn 35,7 ngàn doanh nghiệp, gấp gần 1.000 lần năm 1986.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 (khoảng 32,442 tỷ USD) bằng gần 40 lần năm 1986. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2005 đạt khoảng 36,9 tỷ USD, bằng 23 lần năm 1986. Năm 1986, nhập siêu ở mức 300%, trong 5 năm gần đây được khống chế ở mức dưới 20% kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở rộng vượt bậc, từ chỗ chủ yếu trong nội bộ khối xã hội chủ nghĩa (trước năm 1986), đến năm 2005, hàng hoá nước ta đã vươn tới hầu hết các vùng, lãnh thổ trên thế giới.
3.2. Thị trường nội địa
Thị trường nội địa có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thức rõ vị trí của thị trường nội địa trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương và quyết sách lớn để phát triển thị trường lành mạnh, đúng hướng. Sự thay đổi về quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị trường hàng hoá dịch vụ. Từ năm 1986, thị trường hàng hoá, dịch vụ nước ta có nhiều biến đổi lớn về chất và phát triển vượt bậc về lượng. Qua 20 năm đổi mới, có thể đánh giá khái quát những thành tựu của thị trường nội địa như sau:
3.2.1. Về cơ bản đã xoá bỏ cơ chế lưu thông cũ, chuyển sang cơ chế lưu thông mới, khắc phục tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”, hình thành thị trường thống nhất khá ổn định và thông suốt trong cả nước
Từng bước tạo dựng môi trường kinh doanh thông thoáng trong môi trường hàng hoá được tự do mua bán, thương nhân được tự do hoạt động theo pháp luật và các yêu cầu của thị trường.
Tự do hoá thương mại, tự do hoá lưu thông đã làm cho hàng hoá giao lưu thông suốt giữa các vùng trong cả nước, góp phần khai thác tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, từng doanh nghiệp, hình thành 3 cấp độ thị trường hàng hoá: cổ điển (sơ khai), phát triển và hiện đại.
Tại thị trường thành thị (nhất là tại các thành phố và các thị xã lớn) các hình thức tổ chức thương mại văn minh, hiện đại, phát triển tương đối nhanh, làm cho thị trường thành thị trở thành trung tâm và đầu mối giao lưu kinh tế, phát luồng bán buôn.
Thị trường nông thôn từng bước phát triển và mở rộng với sự đa dạng của loại hình thương nhân thuộc các thành phần kinh tế, đáp ứng đủ nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng trong nước và tạo ra một nguồn hàng xuất khẩu ngày càng nhiều.
Hoạt động thương mại ở miền núi cũng có sự phát triển khá rõ nét, góp phần chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế - xã hội miền núi với mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng lên rõ rệt.
3.2.2. Hàng hoá, dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại, nâng cao về chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng
Hàng hoá cung ứng trên thị trường tăng trưởng với mức cao, trên 10%/năm, phong phú về quy cách chủng loại và chất lượng ngày càng được nâng cao, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và còn dư thừa để xuất khẩu, góp phần quan trọng giữ vững các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định đời sống của nhân dân.
Bên cạnh sự gia tăng về tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội, cơ cấu chủng loại hàng hoá có sự biến đổi theo hướng tiến bộ: tỷ trọng hàng công nghiệp tăng, tỷ trọng hàng lương thực, thực phẩm giảm, tỷ trọng dịch vụ có xu hướng tăng dần lên.
3.2.3. Kiềm chế được lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức hợp lý đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội
Phù hợp với yêu cầu khách quan, giá cả phản ánh đúng hơn giá trị và quan hệ cung - cầu trên thị trường, việc thực hiện cơ chế một giá và mua bán bình thường vật tư hàng hoá đã làm giảm mạnh các nhu cầu giả tạo và nạn đầu cơ, tích trữ vật tư hàng hoá trong nước. Chỉ số tăng giá bình quân hàng tháng của thị trường xã hội năm 1986 là 20%, năm 1989 là 2,5%, năm 2000 là 1% và năm 2004 chỉ còn 0,79%; giá cả hàng hoá tương đối ổn định, các cơn sốt giá giảm dần. Đặc biệt, từ 1996 đến nay, không có các “cơn sốt” do quan hệ mất cân đối cung cầu gây ra ngay cả trong dịp lễ, tết hoặc lúc bị thiên tai. Nhu cầu về các mặt hàng trọng yếu được đảm bảo bình thường.
3.2.4. Từng bước hình thành các kênh lưu thông của một số mặt hàng chủ yếu
Với sự tham gia đông đảo của các loại hình thương nhân thuộc các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, gắn sản xuất với tiêu thụ, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và bảo đảm các nhu cầu trong nước. Mạng lưới kinh doanh thương mại, dịch vụ tiếp tục được mở rộng trên cả ba địa bàn: thành thị, nông thôn và miền núi, với sự tham gia của các chủ thể kinh doanh. Tổ chức và phương thức kinh doanh, phương thức mua bán ngày càng đổi mới, phong phú và linh hoạt hơn.
3.2.5. Kết cấu hạ tầng thương mại ngày càng phát triển theo hướng văn minh, hiện đại
Năm 1996, cả nước có gần 5.000 chợ, đến năm cuối 2004 tăng lên 8.751 chợ các loại và năm 2010, theo quy hoạch, cả nước có 8.576 chợ đạt tiêu chuẩn với sự đa dạng về loại hình kinh doanh và quản lý, xuất hiện một số chợ đầu mối nông sản và chợ chuyên doanh. Các hình thức trung tâm thương mại, siêu thị và cửa hàng tự phục vụ, hội chợ - triển lãm thương mại, trung tâm giao dịch hàng hoá… đang hình thành và phát triển ở khu vực thành thị, các vùng kinh tế trọng yếu. Năm 1997, cả nước mới có một số ít siêu thị, đến năm 2004, ở 21 tỉnh, thành phố đã có hàng trăm trung tâm thương mại, siêu thị và năm 2010, số trung tâm thương mại, siêu thị cửa hàng tự chọn thuộc sở hữu Nhà nước, tư nhân, hợp tác xã là gần 600 với sự phong phú và đa dạng về mẫu mã chủng loại hàng hoá, chất lượng bảo đảm, phương thức phục vụ văn minh, hấp dẫn đối với khách hàng.
3.2.6. Đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia thị trường, khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Doanh nghiệp nhà nước đã từng bước vươn lên, thích ứng với cơ chế mới, hiệu quả kinh doanh được nâng cao, giữ được vai trò nòng cốt ở những mặt hàng trọng yếu ở những khâu và lĩnh vực then chốt, chi phối 70 - 75% khâu bán buôn, chiếm 20 - 21% tổng mức lưu chuyển bán lẻ.
Sau khi bị tan rã hàng loạt, các hợp tác xã thương mại đã từng bước chuyển đổi, củng cố và phát triển, phát huy được vai trò ở nông thôn, miền núi, chiếm trên dưới 1% tổng mức bán lẻ trên thị trường theo những mô hình hợp tác xã kiểu mới như: gắn dịch vụ nông nghiệp với thương mại, dịch vụ trong trường học, kinh doanh và quản lý chợ…
Dưới hình thức công ty, cá nhân, hộ kinh doanh cá thể, thương mại tư nhân phát triển nhanh, nhất là từ khi Nhà nước ban hành Luật Doanh nghiệp, hiện chiếm gần 80% tổng mức bán lẻ. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng khoảng 3% trong tổng mức bán lẻ trên thị trường nội địa. Các doanh nghiệp, doanh nhân ngoài khu vực Nhà nước tạo ra khá nhiều việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư, tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư, hàng tiêu dùng phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân.
3.2.7. Quản lý nhà nước về thương mại có sự đổi mới từ trung ương đến địa phương cả về tư duy, nội dung và phương pháp quản lý, môi trường pháp lý cho lưu thông hàng hoá, hoạt động của thương nhân
Liên quan đến mặt hàng kinh doanh, Nhà nước quy định những mặt hàng, dịch vụ cấm kinh doanh; mặt hàng, dịch vụ kinh doanh có điều kiện và hạn chế kinh doanh; cơ chế, chính sách đối với các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế (quyền lợi, nghĩa vụ, tổ chức, quản lý của các loại hình thương nhân…) và đối với các hình thức tổ chức kinh doanh (quy định về tổ chức, quản lý chợ, siêu thị, trung tâm thương mại,…)
Bên cạnh chính sách chung, Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách khuyến khích phát triển các hợp tác xã, chính sách phát triển thương nghiệp miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc… Hoạt động của các sở thương mại đã chuyển từ thực hiện chức năng chủ quản doanh nghiệp trực thuộc sang hướng dẫn và tổ chức thực hiện chính sách và luật pháp, cung cấp thông tin, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển kinh doanh trên thị trường, thiết lập trật tự, kỷ cương trên thị trường, kìm chế hoạt động buôn lậu, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng và các hành vi gian lận thương mại khác, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, nâng cao hiệu quả kinh doanh thương mại và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
3.3. Hội nhập kinh tế quốc tế
Trong 20 năm qua, đường lối, chủ trương hội nhập kinh tế của Đảng đã đề ra nhất quán và được triển khai tích cực, phù hợp với tình hình cụ thể của từng giai đoạn, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước với một số mốc sự kiện như sau:
3.3.1. Giai đoạn 1986 – 1991
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối Đổi mới và quyết tâm thực hiện chính sách đối ngoại theo hướng độc lập, tự chủ và rộng mở.
3.3.2. Giai đoạn 1991 – 1996
- Đại hội Đảng lần thứ VII xác định rõ chủ trương “độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại”, với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn mới của nước ta.
- Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá VII) về chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại cụ thể hoá hơn nữa chính sách đối ngoại của Việt Nam, nhấn mạnh việc “phát huy những điểm đồng thuận, hạn chế những điểm bất đồng” và nêu rõ chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế.
- Năm 1992, Việt Nam khôi phục quan hệ bình thường vốn bị gián đoạn từ năm 1976 với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
- Tháng 12/1994, Việt Nam chính thức nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
- Tháng 7/1995, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 01/01/1996.
3.3.3. Giai đoạn 1996 – 2001:
- Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996 đề ra nhiệm vụ “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”.
Tiếp theo đó, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 12 về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng XHCN (1996), Quyết định 311/QĐ-TTg ngày 20/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại nông thôn đến năm 2010", để phát triển mạnh hơn nữa thương mại trong nước, qua đó tạo cơ sở cho phát triển xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng, tạo tiền đề cho chủ động hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ phân phối, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Thương mại xây dựng và triển khai thực hiện Đề án "Phát triển thương mại trong nước giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2020".
- Tháng 3/1996, Việt Nam đã tham gia sáng lập ASEM.
- Tháng 11/1998, Việt Nam được kết nạp vào APEC.
3.3.4. Giai đoạn 2001 – 2006
- Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định tính tất yếu của toàn cầu hoá, chỉ rõ ràng khả năng tận dụng những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu, thực hiện phương châm đối ngoại “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
- Nghị quyết 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị nêu mục tiêu, quan điểm chỉ đạo của quá trình hội nhập. Nghị quyết cũng nêu rõ 9 nhiệm vụ liên quan tới các công tác tư tưởng, tuyên truyền, xây dựng chiến lược tổng thể với lộ trình cụ thể, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, gắn chủ trương hội nhập với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng, tích cực đàm phán gia nhập WTO.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã tiếp tục khẳng định “Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan, phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước đi thích hợp, vững chắc, không do dự chần chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn”.
IV. Những thành tựu đạt được trong 20 năm qua
Từ những chủ trương, đường lối và lộ trình thích hợp, lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế đã thu được nhiều thành quả đáng tự hào.
4.1. Khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế
Hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam đã được triển khai một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực, tạo ra nhiều thuận lợi cho xuất, nhập khẩu của Việt Nam thông qua việc khai thác thông tin thị trường mới, mở rộng quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hoá xuất khẩu. Việt Nam đã nhận được các ưu đãi thuế quan và phi thuế quan của các nước, góp phần đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1990 – 1993, tăng nguồn thu ngoại tệ, ổn định cán cân thanh toán và dự trữ ngoại tệ của đất nước, hạn chế ảnh hưởng của sự biến động tài chính – tiền tệ khu vực hồi cuối những năm 90 của thế kỷ trước.
4.2. Mở rộng thị trường thu hút đầu tư
Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi, hoàn thiện đã điều chỉnh, bổ sung nhiều biện pháp, cơ chế chính sách khác, nhằm tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, vừa để đáp ứng nhu cầu sản xuất – tiêu dùng, sức mua tăng lên nhanh chóng của thị trường nội địa rộng lớn, vừa để tranh thủ các lợi thế xuất khẩu của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Đến nay, đã có trên 70 nước, vùng lãnh thổ có các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư ở Việt Nam, trong đó có nhiều công ty và tập đoàn lớn có tiềm lực kinh tế - công nghệ, góp phần làm thay đổi trình độ sản xuất, trình độ quản lý, nâng cao trình độ tay nghề của lao động Việt Nam và khả năng tiếp cận thị trường quốc tế của Việt Nam.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thực sự đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp, đặc biệt thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam (xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 1991 chỉ chiếm 4%; năm 2004 đã chiếm 54,7%; năm 2005 chiếm khoảng 57,2%; năm 2006 đạt 57,9%; năm 2007 chiếm 57,2%; năm 2008 chiếm 55,1%; năm 2009 chiếm 52,7%; năm 2010 chiếm khoảng 47%).
Thời kỳ 2006-2010, hoạt động xuất, nhập khẩu đạt được những bước tiến mạnh nhờ việc Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế như: Tháng 01/2007 Việt nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Tiếp đó là đàm phán FTA song phương với EU, Nhật Bản, Chi Lê được khởi động và thu được những kết quả quan trọng. Đến tháng 12/2008, Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản được ký kết.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006-2010 đạt 56 tỷ USD/năm, bằng 2,5 lần thời kỳ 2001-2005 và tăng 17,2%/năm. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD năm 2006 tăng lên 8 mặt hàng năm 2010.
Một số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao trong giai đoạn này là: Hàng dệt may đứng đầu với bình quân 8,6 tỷ USD/năm, tăng mạnh so với 3,5 tỷ USD của giai đoạn trước. Giày dép đạt 4,3 tỷ USD/năm, tăng so với 2,3 tỷ USD/năm của thời kỳ trước. Hải sản đạt 4,2 tỷ USD/năm, giai đoạn trước là 2,2 tỷ USD/năm. Kim ngạch gạo xuất khẩu tăng mạnh với mức tăng 17,9%/năm. Riêng dầu thô xuất khẩu giai đoạn 2006-2010 giảm đáng kể do tăng nguồn nguyên liệu cung cấp cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, thay thế dần hàng nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu dầu thô giai đoạn này chiếm 13,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm nhiều so với 21% của thời kỳ trước.
Về thị trường xuất khẩu giai đoạn 2006-2010, châu Á đứng đầu với 45,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, châu Mỹ tiếp tục tăng mạnh và ở vị trí thứ hai với 23%; châu Âu chiếm 20,8%; châu Đại Dương chiếm 6,2%; châu Phi tuy chiếm tỷ lệ nhỏ với 2,7% nhưng đã gấp 3,8 lần so với thời kỳ 5 năm trước.
4.3. Được hưởng những ưu đãi thương mại, tạo dựng được môi trường phát triển kinh tế
Việt Nam nhận được sự hỗ trợ về tài chính, tín dụng và viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và chính phủ nước ngoài. Trong giai đoạn 1993-2004, mức viện trợ ODA cam kết dành cho Việt Nam đạt 28,82 tỷ USD, trong đó mức vốn đã thực hiện là 24,107 tỷ USD.
4.4. Nâng cao vị thế của đất nước, góp phần giữ gìn hoà bình
Những thành tựu cơ bản đạt được trên lĩnh vực kinh tế đã củng cố vị thế của đất nước về chính trị và ngoại giao, làm thất bại chính sách bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế và các nước đánh giá cao, tôn trọng đường lối phát triển đất nước độc lập tự chủ. Chúng ta không ngừng thiết lập, củng cố và bình thường hoá quan hệ đối ngoại với nhiều quốc gia, khu vực thị trường quan trọng. Trong đó phải kể tới việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ năm 1996; ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ vào ngày 13/7/2000 và ngày 31/5/2006, đã ký thoả thuận kết thúc đàm phán song phương giữa Việt Nam - Hoa Kỳ về việc Việt Nam gia nhập WTO.
4.5. Tiếp thu trình độ quản lý và chuyển giao công nghệ
Tiếp thu những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của thế giới, Việt Nam đã tạo ra một trình độ cao hơn về năng suất và chất lượng sản phẩm, đem lại nhiều công nghệ, dây chuyền sản xuất mới trong các lĩnh vực sản xuất quan trọng như hoá dầu, nhựa, điện tử và bán dẫn, sản xuất ô tô, điện lực…
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần nâng cao trình độ của lao động, tạo ra tư duy sản xuất - điều kiện mới, lấy chất lượng, hiệu quả làm thước đo, nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi phí của hàng hoá, dịch vụ, tạo đà để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thích ứng với quá trình phân công, chuyên môn hoá và hiện đại hoá đang diễn ra trên toàn cầu và khu vực.